Cha ông ta từ xưa đã nhận thức rất rõ “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Lịch sử chứng minh, thời nào biết trọng dụng người tài thì thời đó phát triển, ngược lại thì đất nước lầm than, nhân dân khổ cực. Tư tưởng đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển và hoàn thiện trong điều kiện mới. Hơn ai hết, Bác là một tấm gương về dùng người, với thái độ trọng thị, tầm nhìn minh triết, nhân văn. Những bài học của Bác về trọng dụng người tài bao năm vẫn còn nguyên giá trị.
Dụng nhân như dụng mộc
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: “Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng cong đều tùy chỗ mà dùng được”. Qua cách nhìn nhân văn của Người, không có ai là bất tài, vô dụng có chăng chỉ là do bố trí sử dụng không đúng mà thôi. Nhà nước dân chủ non trẻ vừa ra đời nên Người luôn trăn trở việc quy tụ người có tài, có đức ra giúp dân, giúp nước.
Ngày 4-10-1945 với bút danh Chiến Thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đăng trên báo Cứu Quốc số 58 bài “Thiếu óc tổ chức một khuyết điểm lớn trong các Ủy ban nhân dân”. Ngoài phê bình nghiêm khắc các khuyết điểm lớn của Ủy ban nhân dân các cấp về làm việc thiếu óc tổ chức, không có nguyên tắc, phân công trách nhiệm không rõ ràng, bố trí cán bộ sai, cán bộ năng lực yếu, Người đã chỉ ra hướng khắc phục là cần phải sử dụng, trọng dụng nhân tài. Người nhấn mạnh: “Việc dụng nhân tài, ta không nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe, miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được. Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì ta đặt ngay vào việc ấy”.
Trong bài “Nhân tài và kiến quốc” đăng trên báo Cứu Quốc số 91, ngày 14-11-1945, Bác viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển nhiều thêm”. Trong bài nói chuyện với các đại biểu báo chí về nội trị và ngoại giao trên báo Cứu Quốc ngày 8-10-1945, Bác nói: “Chính phủ Dân chủ cộng hòa lâm thời là công bộc của dân. Anh em trong Chính phủ ai là người có tài năng, có đức hạnh, giúp đỡ cho dân cho nước tất nhiên được quốc dân hoan nghênh. Là người này hay người khác cũng thế, ai là dân đều có quyền giúp đỡ”.
Đặc biệt, giới nghiên cứu đã thống nhất coi bài “Tìm người tài đức” trên báo Cứu Quốc số 411, ngày 20-11-1946 được Người đích thân ký tên Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Hồ Chí Minh là “Chiếu cầu hiền” đầu tiên của Nhà nước dân chủ. Người viết: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không thấy, đến không khắp đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm những việc ích nước lợi dân thì phải lập tức báo cho Chính phủ biết”.
Minh triết, nhân văn, trọng thị
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, nhận xét về tài dùng người của Bác thì ngay cả những nhân vật đối lập cũng phải kính phục: Bác có cặp mắt nhìn người tinh tường, sử dụng người với tinh thần hết sức trọng thị, minh triết và nhân văn.
Ngày 8-11-1946 sau Tổng tuyển cử toàn quốc, Chính phủ mới do Hồ Chủ tịch đứng đầu đã ra mắt quốc dân. Danh sách Chính phủ có 23 người thì hơn 2/3 là nhân sĩ, trí thức đã nổi tiếng từ trước cách mạng. Cụ Huỳnh Thúc Kháng nổi tiếng tài năng, đức độ và lòng yêu nước, Bác đã tìm mọi cách mời cụ ra làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Khi Người đi Pháp năm 1946 để tìm kiếm một thỏa thuận hòa bình, Người quyết định giao cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Quyền Chủ tịch nước với lời dặn nổi tiếng “Dĩ bất biến ứng vạn biến” và niềm tin của Người đã được đặt đúng chỗ. Cụ Bùi Bằng Đoàn là quan Thượng thư triều Nguyễn, nhưng Bác vẫn mời ra làm Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, rồi sau này làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Còn đó hàng loạt những trí thức tên tuổi, được đào tạo và thành danh ở nước ngoài như: Vũ Đình Hòe, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di… tham gia Chính phủ.
Đặc biệt, trong chuyến đi Pháp vào năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời nhiều trí thức Việt kiều trở về nước phục vụ kháng chiến, nổi tiếng nhất là 4 người: Phạm Quang Lễ (người được Bác đổi tên là Trần Đại Nghĩa), Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh, bác sĩ Trần Hữu Tước… Trong cuộc kháng chiến gian khổ, hàng loạt trí thức tên tuổi đã nghe theo lời kêu gọi của Người, đã từ bỏ cuộc sống đủ đầy ở Hà Nội lên chiến khu tham gia kháng chiến như: Nguyễn Khắc Viện, Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, Lê Văn Thiêm, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ… Những tinh hoa trí thức ấy góp phần tạo nên thế và lực cùng với khối đại đoàn kết toàn dân đưa cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc đến thắng lợi.
Tư tưởng của Người soi rọi
Khi miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, hệ thống chính trị đã cơ bản hoàn chỉnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung vào xây dựng tiêu chuẩn cán bộ. Người xác định “cán bộ là gốc của mọi việc”, vậy nên “tìm kiếm, phát hiện, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
Cùng với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải có năng lực. Người nói: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn; chính trị là đức, chuyên môn là tài”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ có những cán bộ có đức, có tài mới có đủ năng lực đảm đương công việc dù công việc khó khăn, vất vả đến đâu. Năng lực của cán bộ được thể hiện ở trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc, làm chủ được tri thức khoa học và có khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chuyên môn. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải vững vàng về chính trị và giỏi về chuyên môn. Người chỉ rõ, cán bộ phải vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bởi Người quan niệm, cán bộ có đức mà không có tài, làm việc gì cũng khó. Cán bộ có tài mà không có đức thì đó là người vô dụng!
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc thu hút, trọng dụng nhân tài phù hợp thực tiễn ở từng giai đoạn lịch sử. Gần đây nhất, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế – xã hội”.
***
Cuối năm 2024, Trung ương đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng. Từ đây, mọi người dân Việt Nam, trăm triệu người như một, với sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết nhất trí, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc càng đòi hỏi cán bộ trong hệ thống chính trị “vừa hồng vừa chuyên”. Hiện nay, toàn Đảng chuẩn bị tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV. Trong đó, công tác chuẩn bị nhân sự để bố trí, sắp xếp vào các vị trí lãnh đạo nhiệm kỳ tới cực kỳ quan trọng, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá khi chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng XIII: “Đây là công việc có ý nghĩa chiến lược gắn liền với vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước”. Kế thừa tư tưởng trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước tin tưởng vào sự sáng suốt của Đảng trong lựa chọn, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo đủ đức, đủ tài và đủ tầm để gánh vác nhiệm vụ.
TRẦN DUY
https://baokhanhhoa.vn/bao-xuan-2025/202501/dung-nhan-nhu-dung-moc-cua-chu-tich-ho-chi-minh-tam-nhin-minh-triet-va-nhan-van-08f2da3/
Người xem: 1